Xác định mức bội chi và lộ trình cắt giảm bội chi
Chiều 25/5, tại Hà Nội, Bộ Tài chính đã tổ chức họp báo chuyên đề về tăng cường kỷ luật, kỷ cương ngân sách nhà nước.
Vụ trưởng Vụ Ngân sách Nhà nước Võ Thành Hưng cho biết, thời gian qua, Chính phủ đã thành công trong việc giảm tốc độ tăng nợ công, cùng với duy trì tốt tốc độ tăng trưởng, kiểm soát và giảm dần bội chi ngân sách. Tỷ lệ nợ công/GDP, tính đến cuối năm 2017 đã giảm.
Dư nợ công đến năm 2017 ở mức 61,4%GDP (năm 2016 là 63,8%GDP), nợ Chính phủ ở mức 51,8%GDP (năm 2016 là 52,8%GDP), trong giới hạn được Quốc hội cho phép.
Nợ được Chính phủ bảo lãnh cũng đã giảm, hiện bằng khoảng 9% GDP từ mức khoảng gần 12% trong một số năm qua.
Vụ trưởng Vụ Ngân sách Nhà nước cho biết thêm, thời gian tới, trước nhu cầu đầu tư phát triển vẫn còn lớn, bội chi ngân sách còn cao (năm 2018 là 3,7%GDP) nên vẫn phải tăng cường huy động nguồn vốn vay trong nước, nước ngoài.
Để thực hiện việc huy động vốn trong bối cảnh kiểm soát an toàn nợ công, nợ nước ngoàicủa quốc gia, cần tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp về cơ cấu lại ngân sách nhà nước và nợ công.
Khẩn trương xây dựng và ban hành các nghị định hướng dẫn Luật Quản lý nợ công. Bộ Tài chính đã trình Chính phủ 06 nghị định, các nghị định này đang lấy ý kiến thành viên Chính phủ, dự kiến ban hành trong cuối tháng 5 hoặc đầu tháng 6, đảm bảo thực thi từ 1/7/2018.
Đầu tư từ nguồn vốn vay công chỉ tập trung cho các dự án quan trọng, có tác động lan tỏa để từng bước kiểm soát tốc độ gia tăng dư nợ công thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ trượt giá.
Tăng tỷ trọng dự toán chi đầu tư phát triển trong tổng chi ngân sách nhà nước; giảm tỷ trọng dự toán chi thường xuyên; tăng kỳ hạn vay, giảm lãi suất, bảo đảm an ninh tài chính quốc gia.
Điều hành thực hiện các kế hoạch tài chính ngân sách, đầu tư công trung hạn, kế hoạch vay, trả nợ công cần đảm bảo dư địa dự phòng rủi ro tiềm ẩn.
Việc giải ngân vốn vay ODA, vay ưu đãi chỉ giới hạn trong kế hoạch đầu tư công trung hạn (hạn mức được Quốc hội quy định không quá 300 nghìn tỷ đồng giai đoạn 2016-2020).
Đảm bảo cân đối, bố trí đầy đủ nguồn để trả nợ đầy đủ, đúng hạn các khoản gốc, lãi của Chính phủ; ưu tiên bố trí nguồn tăng thu, tiết kiệm chi cho chi trả nợ để giảm dư nợ Chính phủ, nợ công.
Chủ động cân đối nguồn vốn vay trong và ngoài nước theo hướng tối ưu hóa chi phí vay trước bối cảnh Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập trung bình, không còn khả năng tiếp cận vốn vay ODA với ưu đãi cao như trước đây.
Cần chế tài mạnh
Theo ông Lê Tuấn Anh, Phó vụ trưởng Vụ Đầu tư (Bộ Tài chính), pháp luật về đầu tư và xây dựng hiện hành (Luật Đầu tư công, Luật Xây dựng) đã quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng cấp trong lập, thẩm định và quyết định đầu tư dự án; đồng thời cũng quy định rõ điều kiện được điều chỉnh dự án. Đối với đầu tư công, Bộ trưởng và chủ tịch UBND là người quyết định đầu tư.
Do vậy, quá trình thực hiện nếu có điều chỉnh không đúng thì trách nhiệm đầu tiên thuộc chủ đầu tư, cơ quan thẩm định và người phê duyệt điều chỉnh; các cá nhân, tổ chức nào sai phạm sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Ông Lê Tuấn Anh chỉ ra nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến việc "đội vốn". Với các nguyên nhân khách quan, theo luật định thì việc điều chỉnh dự án và tăng vốn là cần thiết. Đối với các nguyên nhân chủ quan cần có phân tích, đánh giá cụ thể đối với từng dự án để xác định rõ trách nhiệm cá nhân, tổ chức trong quá trình thực hiện, từ đó quy đúng trách nhiệm.
Song nhìn chung là do chất lượng ở khâu lập dự án ban đầu kém, dự án được lập sơ sài, thiếu thực tế (khảo sát, lập dự án). Chất lượng thẩm định không cao hay như khâu tổ chức thực hiện không đồng bộ dẫn đến kéo dài thời gian (giải phóng mặt bằng chậm, vốn bố trí không đủ, nhà thầu không đủ năng lực, thi công kéo dài...). Đặc biệt, thiếu kiên quyết trong chỉ đạo, thực hiện của các cấp quản lý, theo dõi và thực hiện.
Để ngăn chặn được tình trạng này, ông Lê Tuấn Anh cho rằng, phải tăng cường phản biện độc lập trong lựa chọn quyết định đầu tư, giám sát, kiểm tra nghiêm túc, chế tài xử lý mạnh...
Khẩn trương ban hành định mức sử dụng diện tích chuyên dùng
Về quản lý trụ sở, đại diện Bộ Tài chính cho biết đã đạt được những kết quả quan trọng như nắm được tổng thể trụ sở làm việc, tổng số nhà, đất đã được phê duyệt phương án là 128.256 cơ sở nhà, đất với diện tích đất là 1.989.813.742 m2, diện tích nhà là 118.202.686 m2.
Trong đó, giữ lại tiếp tục sử dụng là 117.579 cơ sở, chuyển giao chính sách nhà ở, đất ở là 621 cơ sở, điều chuyển 2.785 cơ sở, bán 3.036 cơ sở, thu hồi 641 cơ sở, chuyển mục đích sử dụng đất 402 cơ sở, di dời 80 cơ sở và phương án khác là 3.155 cơ sở nhà, đất.
Đồng thời, tạo quỹ đất để xây dựng các công trình công cộng; đầu tư, phát triển các dự án nhà ở xã hội, nhà ở thương mại, khách sạn, dịch vụ... góp phần chỉnh trang đô thị, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội và tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Cùng đó, khai thác được nguồn lực tài chính từ đất đai cho đầu tư hiện đại hóa công sở tại các cơ quan, đơn vị, đầu tư mở rộng các cơ sở sản xuất kinh doanh.
Bên cạnh kết quả đạt được, thực tế triển khai vẫn còn một số tồn tại như các cơ quan, tổ chức, đơn vị có nhà đất dôi dư so với tiêu chuẩn, định mức; sử dụng lãng phí, bỏ trống, cho thuê, liên doanh, liên kết không đúng quy định. Việc khắc phục tình trạng sử dụng trụ sở làm việc, nhà, đất sai quy định diễn ra còn chậm, kéo dài, thiếu chế tài xử lý từ khâu chính sách đến tổ chức thực hiện; một số bộ, ngành không thực hiện bàn giao lại trụ sở cũ khi xây dựng trụ sở mới.
Thời gian tới, các bộ, ngành, địa phương cần khẩn trương ban hành định mức sử dụng diện tích chuyên dùng trong trụ sở làm việc, cơ sở hoạt động sự nghiệp để làm cơ sở đầu tư xây dựng mới, nâng cấp, cải tạo, bố trí sử dụng, xử lý nhà, đất; tuân thủ theo tiêu chuẩn, định mức đối với diện tích chuyên dùng...
Hoan Nguyễn