Bồ Đào Nha - nơi để đến của du khách Mỹ

Bà Ameshia Cross, chiến lược gia chính trị tại Washington, D.C., khi đến thăm Bồ Đào Nha lần đầu tiên, cho biết: “Theo nghĩa đen, đối với người Mỹ hiện nay, đó là nơi để đến”.

Các quán bar, nhà hàng và khách sạn ở Lisbon, một thành phố tại châu Âu, chật kín khách du lịch, đa số là người Mỹ. (Nguồn: The Wall Street Journal)
Các quán bar, nhà hàng và khách sạn ở Lisbon, một thành phố tại Châu Âu, chật kín khách du lịch, đa số là người Mỹ. Nguồn The Wall Street Journal.

Đồng USD mạnh - và sự phục hồi mạnh mẽ sau Covid-19 - đã tiếp thêm sức mạnh cho hàng triệu người Mỹ móc hầu bao chi trả cho một kỳ nghỉ xa hoa ở Châu Âu.

Du lịch hiện tạo ra 1/5 sản lượng kinh tế ở Lisbon (thủ đô của Bồ Đào Nha) và hỗ trợ 1/4 số lượng việc làm. Theo ước tính của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Bồ Đào Nha đã tăng gần 8% từ năm 2019 đến năm 2024, so với mức dưới 1% của Đức.

Chính phủ ghi nhận thặng dư ngân sách hiếm hoi ở mức 1,2% GDP vào năm ngoái và tỷ lệ nợ trên GDP dự kiến ​​sẽ giảm xuống 95% trong năm nay, thấp nhất kể từ năm 2009. Dân số nước này đang tăng trưởng trở lại sau nhiều năm suy giảm, một phần nhờ vào làn sóng lao động nhập cư và các ưu đãi thuế hay thị thực đã thu hút người lao động có tay nghề cao.

Khẳng định du lịch vẫn còn dư địa để phát triển hơn nữa, Thị trưởng Lisbon thông tin, mỗi ngày, thành phố này chỉ có khoảng 35.000 khách du lịch, trong khi dân số khoảng một triệu người. Ông nói: “Chúng ta đang ở rất xa tình trạng được gọi là du lịch quá mức”.

Theo Oxford Economics, chi tiêu cho du lịch và khách sạn trên toàn thế giới tăng nhanh hơn khoảng 7 lần so với tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong hai năm qua. Mô hình đó dự kiến ​​sẽ tiếp tục trong thập niên tới, mặc dù ở mức độ thấp hơn.

Đối với Bồ Đào Nha, còn có một lý do khác ít được biết đến khiến cuộc khủng hoảng nợ khu vực đồng Euro hóa ra lại là một lợi ích bất ngờ. Khi đất nước được giải cứu bằng gói cứu trợ trị giá 78 tỷ Euro vào năm 2011 (khoảng 115,5 tỷ USD vào thời điểm đó), chính phủ đã đồng ý huy động tiền bằng cách tư nhân hóa TAP Air Portugal - hãng hàng không quốc gia đang gặp khó khăn. Chính phủ nước này đã bán cổ phần kiểm soát TAP Air Portugal cho tập đoàn JetBlue do David Neeleman đồng sáng lập.

Ông Neeleman nói: “Tôi sinh ra ở Brazil, nói tiếng Bồ Đào Nha nhưng chưa bao giờ đến Bồ Đào Nha. Tôi không biết ai đã từng đến Bồ Đào Nha… Thật bất tiện khi mọi người không làm điều đó”.

Là chủ sở hữu của TAP, Neeleman đã tăng số lượng chuyến bay thẳng đến Mỹ lên gấp 8 lần từ năm 2015 đến năm 2020, bổ sung các trung tâm lớn như JFK và Boston Logan, đặt cược rằng điều đó sẽ mở ra một thị trường chưa được khai thác. Khi lượng đặt chỗ tăng vọt, các hãng hàng không khác của Mỹ cũng theo sau.

Du khách tham quan Hy Lạp. (Nguồn: The Borgen Project)
Du khách tham quan Hy Lạp. Nguồn The Borgen Project.

Doanh nhân này nói: “Điều đó thực sự hài hước, bởi vì tôi từ chỗ không biết ai đã từng đến Bồ Đào Nha đến việc mọi người đều nói với tôi rằng họ sẽ đến Bồ Đào Nha”.

Châu Âu, đặc biệt là Nam Âu, được hưởng lợi hơn nhiều khu vực khác. Mặc dù chỉ là nơi sinh sống của 5% dân số thế giới nhưng EU đã nhận được khoảng 1/3 tổng doanh thu du lịch quốc tế, ở mức hơn nửa nghìn tỷ USD, vào năm ngoái. Con số này tăng gần gấp 3 lần trong hai thập niên và so với khoảng 150 tỷ USD của Mỹ, nơi ngành du lịch phục hồi chậm hơn.

Một lý do là cuộc khủng hoảng nợ công tàn khốc đã ảnh hưởng nặng nề đến miền Nam lục địa già hơn một thập niên trước. Không thể kích thích nhu cầu bằng chi tiêu công hoặc thúc đẩy xuất khẩu bằng cách phá giá đồng tiền đồng Euro, những quốc gia này chỉ có thể tăng cường khả năng cạnh tranh bằng cách giảm lương. Điều này và sự sụp đổ của bất động sản khiến ngành du lịch trong khu vực trở nên cực kỳ cạnh tranh với chi phí rẻ hơn nhiều so với các điểm đến trên bãi biển Caribbean và ngang bằng với các điểm đến ở Mỹ Latinh như Mexico.

Miền Nam Châu Âu được hưởng lợi

Trên khắp miền Nam Châu Âu, sự bùng nổ du lịch chưa từng có do du khách Mỹ đang thúc đẩy tăng trưởng ở những nơi từng bị coi là điển hình cho sự trì trệ kinh tế, tạo ra hàng trăm nghìn việc làm và lấp đầy kho bạc của các chính phủ đang ngập nỗi lo nợ công.

Ngay cả khi một số người lo ngại sự bùng nổ du lịch có thể tạo ra những vấn đề khác, thì cơn sốt Địa Trung Hải đang làm thay đổi lịch sử kinh tế của châu Âu. Trong những năm 2010, Đức và các nền kinh tế thiên về sản xuất khác đã giúp lục địa này thoát khỏi cuộc khủng hoảng nợ nhờ xuất khẩu ô tô và tư liệu sản xuất tăng mạnh, đặc biệt là sang Trung Quốc.

Ảnh Getty Images.
Du khách Mỹ đến Châu Âu ngày càng nhiều. Ảnh Getty Images.

Ngày nay, những nước ở miền Nam Châu Âu như Italy, Tây Ban Nha, Hy Lạp và Bồ Đào Nha đóng góp từ một phần tư đến một nửa mức tăng trưởng hằng năm của EU.

Trong khi tăng trưởng Đức đang đi ngang thì Tây Ban Nha lại là nền kinh tế lớn tăng trưởng nhanh nhất Châu Âu. Gần 3/4 mức tăng trưởng gần đây của đất nước và 1/4 việc làm mới có liên quan đến du lịch. Ở Hy Lạp, có tới 44% tổng số việc làm liên quan đến du lịch.

Trong ngắn hạn, người ta có thể nhìn thấy triển vọng sáng sủa từ sự tăng trưởng du lịch này. Tuy nhiên, một số nhà kinh tế, người dân và chính trị gia lo ngại về tác động lâu dài của sự bùng nổ.

Tiền thuê nhà và các chi phí sinh hoạt khác đang tăng lên ở những điểm nóng du lịch, khiến nhiều người dân địa phương gặp khó khăn hơn trong công việc. Sự tập trung cao độ vào du lịch, vốn mang lại lợi nhuận nhanh chóng nhưng vẫn là hoạt động có năng suất thấp, ràng buộc các nền kinh tế này với một ngành có tính chu kỳ cao. Nó cũng có nguy cơ cản trở người lao động và vốn đầu tư vào các lĩnh vực sinh lời nhiều hơn, như công nghệ và sản xuất cao cấp.

Liệu “nền kinh tế bảo tàng” mới nổi của Châu Âu có thể hỗ trợ việc tạo ra của cải bền vững và hệ thống phúc lợi mở rộng mà họ đã quen thuộc kể từ khi kết thúc Thế chiến II không? Và điều gì sẽ xảy ra nếu đồng USD giảm giá và khách du lịch rời đi?

Theo The Wall Street Journal/Oxford Economics