Năm 2013, Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Tuyên Quang đã phối hợp với Uỷ ban nhân dân huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang và Dự án hỗ trợ nông nghiệp, nông dân và nông thôn tỉnh Tuyên Quang (TNSP) hướng dẫn bà con tại thôn Làng Bát chuyển đổi sang trồng và chế biến chè theo tiêu chuẩn VietGAP.
Chè xanh Làng Bát - Hàm Yên, Tuyên Quang
Dự án này được xem giúp nâng cao chất lượng, năng suất cây chè, đưa cây trồng này thành nông sản chủ lực phát triển kinh tế địa phương, đồng thời gây dựng thương hiệu chè xanh Làng Bát.
Tổ hợp tác sản xản xuất Chè xanh Làng Bát (xã Tân Thành, huyện Hàm Yên) được thành lập và đi vào hoạt động, thành viên của tổ hợp tác đã chuyển đổi từ trồng và chế biến chè từ phương pháp truyền thống sang trồng và chế biến chè an toàn theo tiêu chuẩn thực hành sản xuất nông nghiệp tốt ở Việt Nam (VietGAP) với diện tích ban đầu là 5,0 ha/16 hộ đến năm 2018 số thành viên đã tăng lên 40 hộ với diện tích được chứng nhận VietGAP tăng lên là 17,6ha.
Để có chè sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, các thành viên của Tổ hợp tác đã được tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc, bón phân, phòng trừ sâu bệnh, thu hoạch theo tiêu chuẩn của sản xuất VietGAP. Nhờ áp dụng và thực hiện tốt quy trình sản xuất, sản lượng chè búp tươi của tổ sản xuất Làng Bát tăng lên 1,5-2 lần, đạt khoảng 18-20 tấn/ha/năm.
Giá thu mua chè tươi tại vườn luôn ổn định ở mức 10.000 -12.000 đồng/kg chè búp tươi. Cùng với đầu tư sản xuất, tổ hợp tác đã được dự án hỗ trợ các thiết bị sao sấy, máy hút chân không, xây dựng thiết kế tem, nhãn, đăng ký mã số, mã vạch, truy xuất nguồn gốc sản phẩm... để nâng cao chất lượng chè khô, thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm cho các hộ trồng chè.
Đầu tư vào VietGAP giúp nâng cao cả sản lượng lẫn giá bán. Mặc dù chi phí có tăng nhưng lợi nhuận từ VietGAP đối với các hộ vẫn rất lớn. Cụ thể, đối với 1 ha chè, sản lượng tăng từ 2.400 kg/ha đến 2.520kg/ha. Chi phí đầu vào tăng từ 172,2 triệu đồng/ha lên 175 triệu đồng/ha, giá bán tăng từ 80.000 đồng/kg chè khô lên 160.000 đồng/kg, lợi nhuận tăng từ 69,7 triệu đồng/ha lên 127 triệu đồng/ha.
Sản phẩm chè Làng Bát được tiêu thụ chủ yếu trong nước, trong đó khoảng 30% tiêu thụ tại thị trường trong tỉnh, 60% bán tại thị trường Hà Nội và phần còn lại đã theo chân thương lái vào tới thị trường miền Trung và miền Nam. Chất lượng hiện nay ngày càng nâng lên, người tiêu dùng ngày càng biết đến, nâng cao tính cạnh tranh của chè Tuyên Quang. Nhiều khách hàng trong và ngoài tỉnh hiện nay đã biết đến chè Làng Bát Tân Thành.
Việc hướng nông dân tham gia sản xuất chè an toàn theo VietGAP hiện là hướng đi tích cực nhằm đưa cây công nghiệp chè trở thành cây trồng mũi nhọn ở huyện Hàm Yên. Cùng với đó, việc áp dụng kiến thức, khoa học kỹ thuật trong sản xuất chè an toàn đã thực sự giúp người dân thay đổi hình thức canh tác truyền thống, mang lại hiệu quả cao trong sản xuất, là cơ hội để người dân phát triển kinh tế bền vững.
Minh Châu