Chỉ định thầu dự án BT là "mảnh đất màu" cho tham nhũng
Lỗ hổng lớn nhất
PGS. TS. Nguyễn Đình Hòa, PGĐ Trường Đào tạo và Bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm toán (Kiểm toán Nhà nước): Nhìn từ 2 góc độ kinh tế và pháp lý, dự án BT, về bản chất là một giao dịch mua sắm công với điều kiện thanh toán chậm hay thanh toán sau. Mặc dù là hoạt động mua - bán nhưng nó lại không theo cơ chế thị trường, bởi bên mua - Nhà nước không có sản phẩm cùng loại để có điều kiện lựa chọn và bên bán không có ai để phải cạnh tranh trực tiếp trong chào giá cạnh tranh mà lâu nay hầu như chỉ “một mình một chợ”.
Do thiếu tính công khai dẫn đến các thông tin cần thiết về chủ trương đầu tư, các dự án, lĩnh vực cần kêu gọi đầu tư không được công bố rộng rãi để kêu gọi đa dạng các thành phần kinh tế tham gia, hạn chế số lượng các NĐT tiềm năng có thể tham gia vào các dự án, giảm tính minh bạch và cạnh tranh công bằng.
Về giá cả đối với bên bán, sẽ không thể có giá bán thị trường bởi nó được xác định theo quy trình dự toán và quyết toán của một dự án đầu tư, vốn rất phức tạp để xác định, lại dễ bị thay đổi theo hướng tăng lên bởi nhiều yếu tố phi thị trường. Do đó, con số cuối cùng luôn phụ thuộc vào các quyết định chủ quan của cơ quan hoặc cá nhân có thẩm quyền phê duyệt. Đây là lỗ hổng lớn nhất và là “mảnh đất màu mỡ” nảy sinh tiêu cực, tham nhũng.
Trong khi đó, đối với “vật” mà bên mua sử dụng để thanh toán cho việc mua hàng công trình hạ tầng là quỹ đất, thì giá cả lại xác định được ngay, nhưng đó luôn là giá tối thiểu, còn giá tối đa sẽ do thị trường quyết định.
Chẳng hạn năm 2008, Công ty CP Tập đoàn Nam Cường khởi công xây dựng tuyến đường trục phía bắc Hà Đông (dài hơn 5 km, tiếp nối đường Lê Văn Lương kéo dài), với tổng mức đầu tư hơn 700 tỷ đồng; bù lại Hà Nội đã bố trí hơn 197 ha để NĐT thực hiện dự án đối ứng là KĐT Dương Nội (Hà Đông). Tại thời điểm bàn giao quỹ đất, cơ quan chức năng áp giá đất với NĐT khoảng 8,5 triệu đồng/m2. Tuy nhiên, sau khi tuyến đường trục phía bắc Hà Đông được hoàn thành, giá đất tại đây đã lên mức 30 - 40 triệu đồng/m2.
Sẽ... thất thoát kép?
Như phân tích, hàng hóa “cơ sở hạ tầng” mà dự án BT đưa ra chào - do không có cạnh tranh, cho nên không phản ánh theo giá thị trường.
Khác với dự án BOT, dự án BT hiện ít vấp phải phản ứng từ dư luận hơn, dù thất thoát nếu có là vô cùng lớn. Bởi vì, người dân không phải bỏ tiền túi thanh toán cho dự án BT; với dự án BOT người dân phải trả phí khi sử dụng không ngang giá. Cái phải trả cho NĐT BT là quyền sử dụng đất, người dân thường ít khi để ý đến nguồn lực quốc gia, tài sản quốc gia, coi đó như là của công, theo văn hóa “cha chung không ai khóc”...
Trong cả quá trình, người dân không tham gia trực tiếp vào công đoạn nào, trừ những dự án đất được đổi phải GPMB. Vì thế, với nhiều dự án BT, người dân không biết, không phản ứng hay ủng hộ. Nhiều khi vì không có đủ thông tin, họ còn tưởng rằng đó là các cơ sở hạ tầng do Nhà nước trực tiếp đầu tư và dân được hưởng lợi.
Thất thoát tiếp là từ đất đai. Theo quy định của chính sách tài chính đất đai, việc xác định tiền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất của quỹ đất thanh toán chỉ được thực hiện khi Nhà nước có quyết định giao đất, cho thuê đất.
Nhiều ý kiến cho rằng, thực tế ở thời điểm ký hợp đồng BT, hầu hết quỹ đất thanh toán chưa có quyết định giao đất, cho thuê đất. Do đó, việc xác định giá trị quỹ đất thanh toán tại thời điểm ký hợp đồng BT là không có căn cứ pháp lý để thực hiện.
Với một dự án BT, khu đất được giao để thanh toán dự án đầu tư bắt buộc phải có giá trị cao, thường được tạo nên bởi chính vị trí đắc địa của nó. Nói cách khác, phần tham gia của Nhà nước theo cơ chế công - tư chính là các thương quyền, được coi là tài sản công. Tuy nhiên, yếu tố này hầu như đã bị làm lu mờ trong quá trình xem xét, phê chuẩn các dự án BT.
Tạo dựng niềm tin
Theo PGS. TS. Nguyễn Đình Hòa: Với vai trò là cơ quan chịu trách nhiệm “thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công”, Kiểm toán Nhà nước có nhiệm vụ kiểm toán các dự án BT nhằm góp phần tăng cường tính minh bạch, hạn chế thất thoát, giảm bớt gánh nặng cho người dân, DN và nâng cao trách nhiệm giải trình trong việc thực hiện các dự án BT đối với cơ quan nhà nước và NĐT, tạo niềm tin cho cộng đồng.
Các dự án BT là đối tượng kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước theo Hiến pháp và pháp luật. Do đó, Kiểm toán Nhà nước phải tổ chức kiểm toán để có những đánh giá và kiến nghị nhằm đảm bảo công khai, minh bạch, hiệu lực - hiệu quả trong quản lý các dự án BT, bảo đảm trách nhiệm giải trình của các bên liên quan đến các dự án BT. Phải công khai, minh bạch, đầy đủ, kịp thời và đúng thẩm quyền, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và cá nhân có liên quan.
Cần phải tăng cường hơn nữa công tác kiểm toán, đặc biệt đối với quá trình thực hiện các dự án BT ngay từ khâu lập thẩm định, phê duyệt và công bố dự án, đặc biệt là việc vận hành quá trình quản lý công trình BT và quỹ đất mà Nhà nước dùng để thanh toán cho NĐT.
Phải đề cao quá trình tiền kiểm - thực hiện kiểm toán ngay từ khâu đầu tiên hình thành nên dự án, không phải tiến hành kiểm toán sau khi đã thực hiện xong dự án BT. Bởi lúc đó, nếu phát hiện ra sai sót thì việc khắc phục cũng sẽ không hiệu quả, không phòng ngừa được những hạn chế, rủi ro và thất thoát tiền và tài sản công.
TS. Nguyễn Đình Hoà: “Thông thường, một dự án đầu tư, dù dưới hình thức nào, cũng đều phải qua hai thủ tục pháp lý, đó là các quy trình, thủ tục và thẩm quyền phê chuẩn. Đối với đầu tư theo hình thức PPP nói chung và các dự án BT nói riêng, do thiếu công khai minh bạch, sự “lách luật” xảy ra trên cả hai phương diện này và là nơi dễ dẫn đến lợi ích nhóm”.
Bùi Quyền